Bịa thơ tài hơn vua
Tự Đức là ông vua hay chữ và hay khoe thơ với quần thần[1]. Một hôm tan buổi chầu, Tự Đức nói với bá quan:
Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh nghe!
Rồi Tự Đức đọc luôn:
Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ
Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai
Đây là lối thơ vừa Hán vừa Nôm, các quan đều lấy làm lạ. Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt, thản nhiên tâu rằng:
Tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được nghe rồi! Thần được nghe cả tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.
Tự Đức đang cao hứng về mấy câu thơ vừa Hán dở Nôm độc đáo, nghe Cao Bá Quát nói rất bất ngờ, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính vua nghĩ ra. Tự Đức bảo ông đọc cho nghe cả bài thơ, nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân.
Ông suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:
Bảo mã tây phương huếch hoác lai,
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.
Nghĩa là:
Ngựa báu từ phía tây huếch hoác lại,
Người huênh hoang nhờ cậy dìu về.
Trong vườn oanh hót giọng khề khà.
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm.
Ngày xuân chẳng thấy sương lộp bộp.
Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài.
Tứ thơ khù khờ nhiều người biết,
Khệnh khạng còn mang hỏi tú tài.
Bài thơ vừa đọc xong, các quan nhìn nhau kinh ngạc, còn Tự Đức thì biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhưng cũng rất sửng sốt và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật là đã bịa thêm sáu câu.